Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.Hồ Chí Minh, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định và Tổ chức Forest Trends vừa tổ chức Đối thoại Doanh nghiệp: Vai trò của gỗ nguyên liệu nhập khẩu trong ngành chế biến gỗ Việt Nam và hướng đi nào cho ngành chế biến dăm gỗ xuất khẩu (XK).
Cuộc đối thoại nhằm thảo luận và đưa ra các kiến nghị về cơ chế, chính sách phù hợp góp phần phát triển bền vững ngành chế biến gỗ và dăm XK, mở rộng thị trường, phát triển rừng trồng và bảo vệ rừng tự nhiên.
Liên tục tăng trưởng "nóng"
Đánh giá về tiềm năng XK dăm gỗ của Việt Nam, ông Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends cho biết: Chế biến, XK dăm gỗ vẫn đang phát triển “nóng”. Kể từ năm 2011, Việt Nam đã trở thành quốc gia có lượng dăm gỗ XK lớn nhất thế giới. Năm 2014, Việt Nam XK được hơn 6,97 triệu tấn dăm khô, tương đương với 13,9 triệu m3 gỗ nguyên liệu và đạt kim ngạch 958 triệu USD. Quý I/2015, XK dăm gỗ đạt hơn 200 triệu USD.
Hiện nay, cả nước có 130 cơ sở chế biến XK dăm đang vận hành, tăng 16% so với con số 112 nhà máy của năm 2012. Với tổng công suất thiết kế của các nhà máy trên 8 triệu tấn dăm khô/năm, các nhà máy hoạt động hết công suất sẽ đòi hỏi một lượng gỗ nguyên liệu đầu vào tương đương với trên 16 triệu m3, hầu hết từ nguồn rừng trồng.
“Xu thế thị trường XK tiếp tục được mở rộng như hiện nay là tín hiệu cho thấy số lượng các nhà máy dăm sẽ tiếp tục phát triển”, ông Phúc nhấn mạnh.
Ông Lê Công Cẩn, Giám đốc Công ty liên doanh Trồng và chế biến gỗ rừng trồng Việt Nam nhấn mạnh, từ năm 2000, khi Chính phủ bỏ đánh thuế XK và điều kiện hạn ngạch đối với XK dăm gỗ đã làm thay đổi diện mạo cho ngành chế biến dăm gỗ và trồng rừng sản xuất.
"Khi nhà nước tạo điều kiện để kinh tế thị trường phát triển cũng là lúc ngành dăm gỗ tăng tốc đầu tư. Cùng với cơ chế thị trường đã tác động mạnh đến yếu tố cạnh tranh dẫn đến giá xuất khẩu từ khoảng 60 USD/tấn khô đến nay đạt khoảng 142 USD tấn/khô. Năng suất trồng rừng từ 30 tấn /ha đến nay đạt khoảng 100 tấn/ha. Giá trị 1 ha rừng trồng từ khoảng 15 triệu/ha đến nay đạt khoảng 100 tấn/ha…”, ông Cẩn chia sẻ.
Tuy nhiên, theo quan điểm của các DN chế biến gỗ, sự hình thành và phát triển của ngành dăm đã làm mất cơ hội cho ngành chế biến gỗ, bởi 70-80% sản lượng gỗ rừng trồng được đưa vào chế biến dăm phục vụ XK.
Đại diện một DN XK gỗ cho rằng, "XK dăm là XK nguyên liệu thô và mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội hạn chế. Dựa trên quan điểm này, ngành chế biến gỗ kiến nghị hạn chế sự phát triển của ngành dăm, nhằm phát triển rừng trồng gỗ lớn, từ đó tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến gỗ. Ngành gỗ tin rằng nếu làm được điều đó, nguồn gỗ rừng sẽ được đưa ra chế biến sâu, từ đó mang lại lợi ích cao hơn cho cả DN chế biến gỗ và người trồng rừng”. Vì thế, các DN XK gỗ đã kiến nghị Bộ NN&PTNT hạn chế sự phát triển của dăm gỗ XK.
Có nên tăng thuế XK dăm gỗ?
Gần đây nhất, vào tháng 2/2015, Bộ NN&PTNT ra quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ gắn với vùng nguyên liệu. Nhằm giảm lượng dăm gỗ sản xuất theo lộ trình đã đề ra là đến năm 2020 chế biến dăm XK còn 3 triệu tấn/năm, Bộ cũng kiến nghị Chính phủ áp dụng chính sách thuế theo hướng “tăng thuế XK dăm gỗ và giảm thuế XK đối với sản phẩm gỗ tinh chế XK”.
Điều này đã khiến DN dăm gỗ “bức xúc”, bởi khác với quan điểm của ngành chế biến gỗ, các DN dăm gỗ cho rằng, diện tích rừng trồng của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian gần đây là do sự hình thành và mở rộng của ngành dăm. Nói cách khác, ngành dăm hiện đang làm vai trò bà đỡ nguồn gỗ rừng trồng và điều này tạo động lực quan trọng đẩy nhanh việc mở rộng diện tích, góp phần cải thiện sinh kế cho hàng triệu hộ dân tham gia trồng rừng.
Phát biểu tại cuộc đối thoại, một chuyên gia kinh tế lâm nghiệp khuyến nghị, nên để hai ngành XK gỗ và dăm gỗ cạnh tranh tuân thủ quy luật thị trường, không nên áp dụng chính sách thuế đối với XK dăm gỗ.
Đối với XK gỗ, Nhà nước cần hỗ trợ nguồn giống, cây con tốt, giúp người dân tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng nhằm thực hiện đầu tư cho chu kỳ dài hơn so với chu kỳ nguyên liệu cho dăm. Bên cạnh đó, cần có các cơ chế hiệu quả và an toàn như bảo hiểm rừng trồng nhằm giảm thiểu rủi ro, thiên tai.
Đồng tình quan điểm trên, bà Vũ Thị Hiền, đại diện một tổ chức phi Chính phủ cho rằng, “Nông dân biết gỗ lớn thì bán được tiền nhưng vẫn phải bán sớm thứ nhất là nghèo thì bán, thứ hai là sợ gỗ rỗng ruột. Thực tế, hiện đang tồn tại một số khó khăn nội tại của hộ gia đình gỗ như hạn chế về nguồn thu tiền mặt, khó tiếp cận được nguồn tín dụng, điều này làm hộ thiếu nguồn lực đầu tư nhằm kéo dài chu kỳ cây, do đó không tạo được gỗ lớn".
"Để có thể trồng được gỗ lớn, cơ chế chính sách cần được phát triển theo hướng giải quyết thỏa đáng các khó khăn nội tại của hộ cũng như các yếu hạn chế bên ngoài. Tổng cục Lâm nghiệp cần nghiên cứu kỹ các giải pháp hài hòa nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân tộc thiểu số, nhất là hộ trồng rừng", bà Hiền nhấn mạnh.
Trước các kiến nghị, đề xuất của các DN và chuyên gia, bà Tường Vân, đại diện Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) khẳng định, mới đây, Bộ đã đề nghị Tổng cục Lâm nghiệp phối hợp tổ chức các hội thảo xem xét vấn đề tăng thuế sẽ tác động như thế nào tới hộ gia đình, DN dăm gỗ trước khi đưa tới kết luận cuối cùng. “Vì vậy, trước các đề xuất của các DN, Bộ sẽ nghiên cứu kỹ và có điều chỉnh thích hợp đảm bảo sự phát triển của XK gỗ và dăm gỗ theo hướng gia tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm”